Thứ Tư, 14 tháng 7, 2010

MARCELINO TRUONG VÀ TRANH MANG HỒN VIỆT





Bức tranh mô tả người phụ nữ trong trang phục cổ với quần lụa, yếm trắng, gánh những chiếc đèn lồng dọc bờ sông mà ông đặt tên là Thủy hoa (Fleur d’eau) đã đưa tôi về với một buổi chiều làng quê thanh bình yên ả. Một bức vẽ thuần túy VN của một họa sĩ mang trong mình nửa dòng máu Pháp
Marcelino Trương giới thiệu cho tôi những tập tranh ông vẽ đã được Nhà Xuất bản Gautier, Pháp, phát hành rộng rãi tại Pháp. Tôi có thể hình dung ra sự thú vị khi ngay giữa lòng thủ đô Paris tráng lệ, người dân Pháp lại được ngắm nhìn những sinh hoạt đời thường hết sức đặc trưng của một xứ sở phương Đông hồi thế kỷ 18, 19.
Đậm nét dân gianĐó là quang cảnh tấp nập ở phố Lê Duẩn trước ga Hà Nội, một quầy hàng trong khu Chợ Lớn hay một góc phố cổ Hội An. Các tác phẩm của họa sĩ người Pháp gốc Việt này mang đậm nét dân gian với những ngôi nhà mái ngói cổ kính, những gánh hàng rong, những cây bàng tỏa bóng mát cả một khu phố... Với Thủy hoa, tập tranh đầu tiên của ông xuất bản vào năm 2003 với khoảng 20 bức vẽ, Marcelino đã tái hiện cảnh Hội An vào khoảng thế kỷ 18 và các nhân vật trong tranh là những gia đình thợ thủ công làm đèn lồng. “Quê nội tôi ở Trà Vinh và cụ nội làm nghề kim hoàn. Chính vì thế mà tôi có cảm hứng chọn nhân vật là một gia đình thợ thủ công, chứ không phải một gia đình trí thức hay nông dân cho các bức vẽ của mình” – Marcelino giải thích.
Mỗi bức tranh của ông đều mang nội dung một câu chuyện, có thể là một câu chuyện gia đình mà ông được nghe hồi nhỏ hay chuyện do ông tự sáng tác. Chỉ vào một bức tranh có hình một gã gian ác đang nắm chiếc lồng chim trong tay, ông cho biết đã lấy cảm hứng từ chuyện nhà ông bà nội bị trộm ăn cắp mất con chim quý. Và cứ mỗi khi có một ý tưởng về một câu chuyện nào đó thì một bức tranh mới lại ra đời.
Tranh của Marcelino thấm đẫm hồn của người Việt vì ông luôn tìm tòi những nét mộc mạc trong sinh hoạt đời thường và luôn chủ ý làm bật lên không khí đầm ấm trong các gia đình VN. “Thông thường, khi các họa sĩ châu Âu nhìn về châu Á, họ thường quan tâm đến những cung điện hoàng gia nguy nga tráng lệ. Nhưng tôi thì lại muốn đi sâu vào cái đẹp trong cuộc sống hằng ngày hơn. Có lẽ điều đó bắt nguồn từ những ký ức tuổi thơ của tôi ở VN”- ông bộc bạch. Khi vẽ, ông không chỉ đơn thuần tái hiện khung cảnh từ một tấm ảnh chụp mà ông lồng vào đó các nhân vật của mình, rồi biến đổi một số chi tiết theo góc nhìn của người nghệ sĩ để tạo cho bức tranh mang màu sắc riêng. Cũng không giống các đồng nghiệp khác thường vẽ một cách chung chung về châu Á, Marcelino tập trung phần lớn công sức cho việc vẽ tranh VN. Điều này cũng giúp các tác phẩm của ông có một vị trí riêng biệt trong lòng khán giả Pháp. Ông tự hào cho biết trong năm 2008, Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội sẽ hỗ trợ các nhà xuất bản in khoảng 20 cuốn sách Pháp và một trong những tập tranh của ông có thể sẽ được chọn in trong số này để giới thiệu đến khán giả VN.
VN luôn trong timSinh năm 1957 trong một gia đình cha là nhân viên ngoại giao của Việt-nam cộng hòa, mẹ người Pháp, Marcelino chỉ trải qua 2 năm tuổi thơ tại VN từ năm 1961 đến 1963. Thời gian còn lại ông theo cha mẹ sống ở nước ngoài trong các chuyến công tác. Marcelino chính là tên con phố nơi ông ra đời tại Philippines, còn tên tiếng Việt của ông là Trương Lực. Họa sĩ trở lại VN lần đầu tiên vào năm 1991. Kể từ đó, ông thường xuyên đi lại giữa hai nước Pháp và VN. Trong chuyến về nước lần này, Marcelino mang theo 6 bức tranh khổ lớn để giới thiệu với công chúng TPHCM, đồng thời trình bày các bước để hoàn thành một tác phẩm hội họa. Buổi giới thiệu đã diễn ra tại Viện Trao đổi Văn hóa với Pháp (IDECAF) hôm qua, 3/28 và thu hút sự quan tâm của đông đảo khán giả. Marcelino hy vọng trong thời gian tới có thể tổ chức một buổi triển lãm với quy mô lớn để đưa tranh của ông đến với nhiều khán giả TPHCM hơn nữa.
Hiện đang sống ở Paris cùng gia đình, Marcelino thi thoảng vẫn đưa ba cô con gái về thăm VN để các con cảm nhận được vẻ đẹp quê nội. Tuy thời gian sống ở VN không nhiều, nhưng ông luôn mang trong mình hình ảnh quê hương và luôn có ý thức giới thiệu hình ảnh ấy đến công chúng Pháp. Công việc của ông tuy thầm lặng, nhưng đã góp phần đem văn hóa VN đến gần với thế giới phương Tây, để hình ảnh xã hội VN trở nên thân thuộc trong mắt bạn bè quốc tế.
Kim Vân/NLD
Nghệ thuật vẽ tranh minh họa của Marcelino Trương Lực
(HNMĐT)- Ngày 1/11/2006, tại Hội trường của L'Espace sẽ diễn ra buổi gặp gỡ với họa sỹ người Pháp gốc Việt Marcelino Trương Lực. Ông là họa sỹ nổi tiếng trong lĩnh vực vẽ tranh minh họa cho các tác phẩm văn học và những cuốn truyện tranh thiếu nhi.Họa sỹ Marcelino sinh năm 1957 tại Manilla-Phillippines.
Năm 1983, anh làm việc trong lĩnh vực vẽ minh họa. Với gam mầu nóng và rực rỡ, các tác phẩm của anh làm người xem không khỏi không nghĩ đến Gauguin. Cho đến nay, anh đã cộng tác với hầu hết các nhà xuất bản danh tiếng của Pháp, viết báo, sáng tác hàng chục cuốn truyện tranh và minh họa cho hàng trăm cuốn sách, bài báo, CD, phim hoạt hình, truyện tư liệu...(danh mục các tác phẩm của anh dài tới hàng chục trang giấy).
Danh mục một số tác phẩm văn học Việt Nam in tại Pháp do Marcelino minh họa:*Vàng Lửa, Nguyễn Huy Thiệp* Sói trả thù, Nguyễn Huy Thiệp* Tướng về hưu, Nguyễn Huy Thiệp* Truyện tình kể trong đêm mưa, Nguyễn Huy Thiệp* Phố Lính, Chu Lai* Bến không chồng, Dương Hướng* Đảo đàn bà, Hồ Anh Thái* Dế mèn phiêu lưu kí, Tô Hoài* Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Khắc Trường
Năm 1995, anh đoạt giải của Ngày hội sách cho giới trẻ ở Bologna. Thiết kế bìa sách là một trong những hoạt động chính của anh, đặc biệt phải kể đến những minh họa cho các tác phẩm văn học được xuất bản tại Pháp của Nguyễn Huy Thiệp, Chu Lai, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường, Hồ Anh Thái, Anna Moi…
Các tác phẩm của anh đề cập đến những câu chuyện diễn ra trên mọi châu lục : Việt Nam, Campuchia, Malaisia, Trung Quốc, Ấn Độ, Ả rập Xê út, Hàn Quốc, Madagascar…Các tác phẩm của anh gợi nhớ những bức hoạ của Gauguin. Anh thường vẽ bằng mực tàu, chì màu, sơn dầu, trình bày minh hoạ cho nhiều tờ báo lớn ở Pháp
Anh thường xuyên hướng dẫn các lớp minh họa trong nhiều trường học ở Paris và vùng phụ cận. Anh cũng làm việc và có nhiều buổi nói chuyện với sinh viên mỹ thuật, văn học và báo chí về chủ đề tranh minh họa.
Anh còn là tác giả của bốn tập truyện Hoa nước về mảnh đất Việt Nam xa xưa, trước khi người Pháp đến Việt Nam.
Trích : HaNoi mới online
VIỆT NAM CỦA TÔI

MarcelinoTrương
(dịch từ tiếng Pháp)



Nói về Việt Nam không phải là dễ ! Có nhiều vùng sáng và cũng có nhiều vùng tối trong những câu chuyện của xứ này. Không có gì đen hay trắng hẳn hoi, mà là cả một trùng điệp những màu xám khác nhau... Ở nhiều người, những đóm lửa tưởng đã tắt hẳn, thật ra chỉ chực nhúm lên lại. Việt Nam là một đề tài có thể khơi dậy những vết thương...
Phía họ nội của tôi là một giới Công giáo có tinh thần quốc gia. Như trường hợp của hầu hết gia đình Việt Nam, họ hàng tôi có người này người nọ ở cả hai phe đối nghịch. Chúng tôi chỉ tránh được sự phân hóa gia đình bằng cách vượt quá những chia rẽ chính trị giữa chúng tôi. Tôi may mắn được lớn lên trong một môi trường tương đối cởi mở. Bố tôi học trung học ở Huế, và đại học ở Pháp. Mẹ tôi người Pháp, là con giáo viên, đã từng là sinh viên đại học Sorbonne. Hai người đã quen nhau ở khu Quartier Latin của Paris.
Tôi đã sống 3 năm ở Sàigòn, trong một chung cư khá xấu xí ngay trung tâm thành phố. Tôi đã mê thành phố này. Anh chị em chúng tôi chiêm ngưỡng không biết chán cái nhộn nhịp của thành phố từ bao lơn ở tầng 9. Hồi đó có chú Ba, người tài xế trong gia đình, chú thường dẫn chúng tôi đi xem những cuốn phim dã sử Ý. Mỗi lần chú lấy thang máy, và khi nó chịu chạy, chú hay hát "Chérie je t'aime, chérie je t'adore...", một bài hát Pháp thịnh hành thời đó. Hồ tắm của Cercle Sportif (Câu lạc bộ Tao Ðàn), những chiếc bánh chuối trước cửa trường Jean-Jacques Rousseau, phố Tàu ở Chợ Lớn, đường Catinat (Ðồng Khởi), nhà sách Hachette (Khai Trí), những khóa lễ ngày chủ nhật tại nhà thờ Ðức Bà, sở thú, chợ Tân Ðịnh, Ông Nội và Bà Nội ở ngoại ô Gia Ðịnh, những món ăn của Bà Nội, những buổi dạo chơi bến tàu, những lần chích ngừa trong bệnh viện Grall, những dịp tắm biển ở Vũng Tàu (hồi đó tôi gọi là Cap Saint-Jacques) và Nha Trang, những chiếc taxi 4 ngựa có tay lái màu trắng, tiếng dế ngoài đồng, vân vân... Giá cái thời đó đừng bao giờ chấm dứt ! Nhưng cùng lúc ấy, bố mẹ tôi hay bàn tán về những vụ khủng bố, những âm mưu giành chính quyền trong quân đội, Việt Cộng đang kiểm soát nông thôn, phía Ðồng Tháp Mười, chuyện mấy ông sư tự thiêu, vân vân... Chiến tranh ở chung quanh Sàigòn, thành phố như bị bao vây bởi một làn sóng đỏ, trở thành một Berlin của vùng Ðông Nam Á. Tôi còn nhớ, một buổi sáng tháng 2 năm 1962, có hai chiếc máy bay của không quân VNCH đến oanh tạc dinh tổng thống. Hôm sau, với chú Ba, tôi gia nhập đám đông chen chúc nhau, tò mò phải nhìn cho bằng được những tàn phá của cuộc oanh tạc, một toan tính giết hại gia đình tổng thống ! Năm 1963, gia đình tôi lên đường qua London, vài tuần trước khi tổng thống Diệm bị ám sát. Bố tôi thuộc Bộ Ngoại giao của chính quyền miền Nam, được cử qua đó làm việc. Ông từ chức năm 1964, khi các tướng lãnh thay phiên nhau lãnh đạo quốc gia.
London, chúng tôi không bỏ sót một tin tức nào về Việt Nam. Nước Việt Nam đã trở thành một huyền thoại đối với tôi. Hơn nữa, Việt Nam thường chiếm hàng đầu trong những bản tin của các đài truyền hình. Hồi đó, tôi hầu như không có liên lạc với người Việt, rất hiếm ở bên Anh. Tôi còn nhớ, có một cặp vợ chồng bác sĩ người Anh nhận 3 đứa trẻ Việt Nam làm con nuôi. Mặt mũi cả ba đứa đều bị cháy trầm trọng vì bom napalm. Chúng không còn mũi, không còn tai, không còn môi, không còn lông mày, không còn gì cả, ngoài vài sợi tóc... Kể từ 1968, ở London có nhiều cuộc biểu tình chống chiến tranh Việt Nam, nhất là chống những cuộc dội bom của Mỹ xuống miền Bắc. Tôi không tham gia những cuộc biểu tình này, tôi nghi mọi chuyện không giản dị như người ta nói. Những lối trình bày thô thiển, với sự phân định người tốt kẻ xấu minh bạch, không thuyết phục được tôi.
Thời đó, tuổi trẻ Tây Âu phần đông đứng về phía Mặt Trận Giải Phóng và chế độ Hà Nội. Thanh niên xuống đường với những lời hô "Ho, Ho, Ho, Ho-Chi-Minh". Hầu như chỉ có khuynh hướng cực hữu là ủng hộ chế độ Sàigòn. Tôi không muốn chọn giữa hai thái cực. Tôi không cảm thấy thoải mái trong hàng ngũ nào cả.
Trong gia đình, chúng tôi chỉ nói tiếng Pháp, và tôi đã quên tiếng Việt rất sớm. Từ hồi nhỏ, tôi đã đọc lung tung về Việt Nam, những tác giả như Hougron, Lartéguy, cuốn " Un barrage contre le Pacifique" của Duras, vân vân... Không có tác giả Việt Nam nào ngoài Phạm Duy Khiêm, với cuốn "Légendes des terres sereines". Thuở đó, các nhà văn Việt Nam chưa được dịch qua tiếng Pháp, như bây giờ với những tiểu thuyết của Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương hay Bảo Ninh chẳng hạn ! Văn chương đến từ miền Bắc chỉ có thứ tác phẩm tuyên truyền với giọng điệu chính quy. Tôi cũng không tìm thấy được thực tế của thời đó trong các cuốn sách của miền Nam.
Có một cuốn sách tôi thích, "Continental Saigon" của Philippe Franchini, một người lai Pháp-Việt. Tôi thấy trong đó một cái nhìn đầy thiện cảm về Việt Nam, và một chứng từ về tình trạng những kẻ mang hai giòng máu Pháp Việt trong xã hội Sàigòn. Sau này, cuốn "Métisse blanche" của Kim Lefèvre đưa ra một hình ảnh đen tối hơn về đời sống những người này.
1975: "Việt Nam Cộng Hòa" sụp đổ. Ðúng là cuộc biển máu mà nhiều người lo ngại sau tất cả những tàn bạo của cuộc chiến, đã không xảy ra; nhưng hứa hẹn hòa giải dân tộc cũng không được thực hiện. Những năm sau đó, tôi không quên là đã phải gửi những thùng vải và đồ khâu vá cho bà nội tôi vẫn  sống tại Vũng Tàu. Ông bà nội nhất quyết ở lại Việt Nam, bất kể diễn tiến của tình hình. Ðiều kiện sống của tất cả mọi người lúc đó thật là khó khăn. Với hiện tượng Boat people, nước Việt Nam lại trở về hàng đầu trên các media.
Mãi tới năm 1991 tôi mới trở về Việt Nam. Thật là một cú sốc ! Chuyến đi đã làm tôi say mê Việt Nam, tôi đã bị đất nước này mê hoặc hoàn toàn ! Ở Thành phố Hồ Chí Minh, một người chú đã tiếp đón tôi rất ân cần. Trước đây ông đã chọn lựa hàng ngũ Cách mạng. Ông là một trí thức có hiểu biết rộng, và ông đã bỏ nhiều thì giờ trình bày cho tôi quá trình của những con người mà trước đây tôi chỉ biết qua hình ảnh bị bóp méo bởi tuyên truyền. Và còn bao nhiêu người khác, với những câu chuyện về quá khứ đau khổ của mỗi người. Tôi càng cảm phục lòng can đảm của họ, họ bám víu vào sự sống, nhìn như một cuộc đấu tranh hàng ngày. Tôi thực sự ước muốn cái quá khứ đau thương kia mang đi xa những hận thù dây chuyền mãi không nguôi. Tôi mong hòa giải dân tộc trở thành hiện thực, để đất nước Việt Nam có thể hưởng trọn vẹn những đóng góp, dồi dào và đa dạng, đến từ tất cả những người Việt ở nước ngoài.
Nhìn những bức tranh và hình vẽ của tôi là thấy những hiểu biết về Việt Nam hạn chế đến chừng nào. Trong băng hình "Le dragon de bambou" (nxb Albin Michel 1991, đã bán hết), người ta đã để ý tới một số sai lầm: lỗi chính tả ở một từ tiếng Việt, hình ảnh một người đàn bà bán rong ngồi trên chiếu nơi vỉa hè, vân vân... (băng hình này tôi làm trước chuyến trở về nước lần đầu). Có người thấy những hình đàn bà khỏa thân của tôi không thật: những thân hình quá nở nang đối với đàn bà Việt Nam. Nhưng phải chăng điều quan trọng là trình bày cái Việt Nam của tôi, một hỗn hợp của những kỷ niệm, những câu chuyện nghe kể, những ước mơ và tưởng tượng ? Cái Việt Nam này thể hiện hai bản sắc văn hóa có ở tôi. Biết đâu hai nguồn gốc này lại là một may mắn cho tôi, một ưu điểm không chừng ? 
* Marcelino Truong là cháu nội Bà Mười Hai-Tạ Huỳnh Lang và là con Ông Trương Bửu Khánh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét